Sự khác biệt giữa nguyên lý đo điện trở bằng megger và đồng hồ vạn năng là gì?
Megger, còn được gọi là megohmmeter, chủ yếu được sử dụng để đo điện trở cách điện của thiết bị điện. Nó bao gồm mạch chỉnh lưu nhân đôi điện áp máy phát điện, đồng hồ đo và các thành phần khác. Khi megom kế rung, nó sẽ tạo ra điện áp DC. Khi đặt một điện áp nhất định vào vật liệu cách điện, một dòng điện cực yếu sẽ chạy qua vật liệu cách điện. Dòng điện này bao gồm ba phần, đó là dòng điện dung, dòng hấp thụ và dòng rò. Tỷ số giữa điện áp một chiều và dòng điện rò do megamet tạo ra chính là điện trở cách điện. Thử nghiệm sử dụng megamet để kiểm tra xem vật liệu cách điện có đủ tiêu chuẩn hay không được gọi là thử nghiệm điện trở cách điện. Nó có thể phát hiện xem vật liệu cách điện có bị ẩm, hư hỏng hay cũ kỹ hay không và từ đó tìm ra lỗi của thiết bị. Điện áp định mức của megger là 250, 500, 1000, 2500V, v.v. và phạm vi đo là 500, 1000, 2000MΩ, v.v.
Máy đo điện trở cách điện còn được gọi là megohmmeter, megger, megger. Máy đo điện trở cách điện chủ yếu bao gồm ba phần. Một là máy phát điện cao thế DC, dùng để tạo ra điện áp cao DC. Loại thứ hai là vòng đo. Thứ ba là hiển thị.
(1) Máy phát điện cao thế DC
Để đo điện trở cách điện, phải đặt điện áp cao vào đầu đo. Giá trị điện áp cao này được quy định trong tiêu chuẩn quốc gia của máy đo điện trở cách điện là 50V, 100V, 250V, 500V, 1000V, 2500V, 5000V...
Nhìn chung có ba phương pháp để tạo ra điện áp cao DC. Loại máy phát điện vận hành bằng tay đầu tiên. Hiện tại, khoảng 80% megohmmeter sản xuất ở nước tôi sử dụng phương pháp này (nguồn gốc tên gọi của megger). Đầu tiên là tăng điện áp thông qua máy biến áp nguồn và chỉnh lưu nó để có được điện áp cao DC. Phương pháp thường được sử dụng bởi megohm kế loại nguồn điện lưới. Phương pháp thứ ba là sử dụng loại dao động bán dẫn hoặc mạch điều chế độ rộng xung chuyên dụng để tạo ra điện áp cao DC. Phương pháp này thường được sử dụng bởi các máy đo điện trở cách điện loại pin và loại nguồn điện.
(2) Vòng đo
Trong megger (megohmmeter) được đề cập trước đó, mạch đo và phần hiển thị được kết hợp thành một. Nó được hoàn thiện với một đầu đồng hồ đo tỷ lệ dòng chảy, bao gồm hai cuộn dây có góc bao gồm 60 độ (khoảng). Một cuộn dây song song với hai đầu điện áp, cuộn còn lại nối tiếp với vòng đo. ở giữa. Góc lệch của con trỏ công tơ được xác định bằng tỷ số dòng điện trong hai cuộn dây. Các góc lệch khác nhau biểu thị các giá trị điện trở khác nhau. Giá trị điện trở đo được càng nhỏ thì dòng điện của cuộn dây trong vòng đo càng lớn và góc lệch của con trỏ càng lớn. . Một phương pháp khác là sử dụng ampe kế tuyến tính để đo và hiển thị. Do từ trường trong cuộn dây không đồng đều trong đồng hồ đo tỉ số dòng điện được sử dụng trước đó nên khi con trỏ ở vô cực, cuộn dây dòng điện chính xác là nơi có mật độ từ thông mạnh nhất. Vì vậy, dù điện trở cần đo lớn nhưng dòng điện chạy qua cuộn dây rất hiếm khi góc lệch của cuộn dây lúc này sẽ lớn hơn. Khi điện trở đo được nhỏ hoặc bằng 0, dòng điện chạy qua cuộn dây hiện tại lớn và cuộn dây đã bị lệch đến nơi có mật độ từ thông nhỏ và góc lệch do điều này gây ra sẽ không lớn lắm. Bằng cách này, đạt được hiệu chỉnh phi tuyến tính. Nói chung, điện trở hiển thị trên đầu megger cần phải trải rộng vài bậc độ lớn. Nhưng nó sẽ không hoạt động khi ampe kế tuyến tính được nối trực tiếp nối tiếp với vòng đo. Ở giá trị điện trở cao, các vảy đều chen chúc nhau và không thể phân biệt được. Để đạt được hiệu chỉnh phi tuyến, các thành phần phi tuyến phải được thêm vào vòng đo. Điều này đạt được hiệu ứng shunt khi giá trị điện trở nhỏ. Không có shunt nào được tạo ra khi điện trở cao, do đó màn hình hiển thị giá trị điện trở đạt đến một số bậc độ lớn.






