Sự khác biệt giữa dụng cụ đo độ ẩm halogen và hồng ngoại là gì?
Máy đo độ ẩm bằng phương pháp đo nhiệt lượng làm khô mẫu một cách hiệu quả bằng cách truyền năng lượng bằng bức xạ (thông qua sóng (năng lượng ở dạng sóng hoặc hạt truyền qua môi trường (trong trường hợp này là mẫu)) và đối lưu (truyền nhiệt thông qua chuyển động khối lượng). lò nướng chủ yếu sử dụng sự đối lưu để làm khô mẫu. Cả hai bộ phận gia nhiệt bằng kim loại và halogen đều tỏa năng lượng trong phổ hồng ngoại (Cả hai đều được sử dụng trong dòng OHAUS MB.)
Bức xạ hồng ngoại (IR) là một phần của phổ điện từ, nằm giữa năng lượng vi sóng và ánh sáng khả kiến. IR bao gồm bức xạ nhiệt có dải tần số bước sóng từ 0,75 micron (giới hạn bước sóng dài của ánh sáng đỏ khả kiến) đến 1,5 micron (ranh giới trên vi sóng). Năng lượng hồng ngoại không thể nhìn thấy được bằng mắt người. Ánh sáng đỏ thường liên quan đến hệ thống sưởi hồng ngoại thực sự là ánh sáng đỏ phản chiếu từ quang phổ khả kiến.
Một số máy phân tích độ ẩm sử dụng bộ phận làm nóng bằng kim loại, đơn giản là một tấm kim loại có điện trở thấp để chuyển điện thành nhiệt. Những máy sưởi như vậy rất phù hợp với những môi trường nơi các thành phần thủy tinh bị cấm do các lo ngại về quy định hoặc an toàn (ví dụ: chế biến thực phẩm). Lò sưởi bằng kim loại không đạt yêu cầu vì chúng rất nóng và mất nhiều thời gian để làm nóng hơn so với lò sưởi halogen, khiến chúng khó điều khiển và không mang lại khả năng tái tạo tốt trong máy phân tích độ ẩm.
Bộ phát halogen chứa bộ phận làm nóng vonfram trong một ống thủy tinh nhỏ gọn chứa đầy khí halogen để bảo quản bộ phận vonfram. Bộ phát halogen phát ra bức xạ hồng ngoại trong phạm vi bước sóng ngắn 0.75-1,5 micron. Bản chất nhỏ gọn của bộ phát halogen giúp cải thiện thời gian phản hồi làm nóng/làm mát, rút ngắn thời gian để bộ phận làm nóng đạt được công suất làm nóng tối đa và cuối cùng là rút ngắn thời gian cần thiết để hoàn thành quá trình sấy mẫu. Nó cũng cho phép kiểm soát tốt hơn trong quá trình gia nhiệt.