Cấu tạo của thị kính hiển vi
Thông thường thị kính bao gồm hai bộ thấu kính trên và dưới. Thấu kính phía trên gọi là thấu kính mắt, thấu kính phía dưới gọi là thấu kính hội tụ hay thấu kính trường. Có một khẩu độ giữa thấu kính trên và thấu kính dưới hoặc dưới thấu kính trường (kích thước của nó quyết định kích thước của trường nhìn). Bởi vì mẫu vật được chụp ảnh chính xác trên bề mặt khẩu độ, nên một mảnh tóc nhỏ có thể được dán vào khẩu độ như một con trỏ để chỉ ra mục tiêu của một đặc điểm nhất định. Một micromet thị kính cũng có thể được đặt trên đó để đo kích thước của mẫu vật được quan sát.
Thị kính có chiều dài càng ngắn thì độ phóng đại càng lớn (vì độ phóng đại của thị kính tỉ lệ nghịch với tiêu cự của thị kính).
Chức năng của thị kính
Đó là phóng đại hơn nữa hình ảnh thật rõ ràng đã được thấu kính phóng đại đến mức mắt người có thể dễ dàng phân biệt rõ ràng.
Độ phóng đại của thị kính thường dùng là 5-16 lần.
Mối liên hệ giữa thị kính và vật kính
Các cấu trúc tinh tế đã được phân biệt rõ ràng bằng thấu kính vật kính sẽ không thể nhìn thấy rõ nếu chúng không được thị kính phóng đại lại và không thể đạt tới kích thước mà mắt người có thể phân giải được. Tuy nhiên, các cấu trúc tinh tế không thể phân giải được bằng thấu kính vật kính sẽ không thể nhìn thấy rõ dù được phóng đại lại bằng thị kính công suất cao. Hiện vẫn chưa rõ ràng nên thị kính chỉ có thể đóng vai trò là kính lúp chứ không cải thiện được độ phân giải của kính hiển vi. Đôi khi, mặc dù thấu kính vật kính có thể phân giải được hai điểm vật rất gần nhau nhưng vẫn không thể nhìn rõ vì khoảng cách giữa ảnh của hai điểm vật nhỏ hơn khoảng cách phân giải của mắt. Vì vậy, thị kính và vật kính đều có quan hệ với nhau và hạn chế lẫn nhau.






