Cấu trúc của kính hiển vi kim loại chủ yếu được chia thành ba phần.

Jul 17, 2025

Để lại lời nhắn

Cấu trúc của kính hiển vi kim loại chủ yếu được chia thành ba phần.

 

phần cơ khí
1. Giá đỡ gương là đế của toàn bộ kính hiển vi kim loại. Nó thường có hình móng ngựa hoặc hình chữ nhật, dùng để hỗ trợ tạo độ mịn cho toàn bộ thân gương. Một số kính hiển vi được trang bị thiết bị chiếu sáng bên trong giá đỡ gương.


2 . Trụ gương là bộ phận thẳng đứng phía trên giá đỡ gương, dùng để nối và đỡ tay gương.


3 . Tay gương là phần cong của cột gương hướng lên trên. Một số kính hiển vi được cầm trong quá trình sử dụng có khớp chuyển động được gọi là khớp nghiêng giữa tay gương và giá đỡ gương. Gương có thể nghiêng về phía sau để quan sát dễ dàng hơn.


4. Một ống hình trụ nối với mặt trước của cánh tay gương, thường có chiều dài 160mm. Một số ống được cố định và không thể di chuyển, trong khi những ống khác có thể di chuyển lên xuống. Một thị kính được lắp ở đầu trên của ống và một bộ chuyển đổi vật kính được nối ở đầu dưới.


5. Bộ điều chỉnh là một hình xoắn ốc có hai kích cỡ được lắp đặt trên cánh tay hoặc cột gương. Khi xoay, nó có thể di chuyển nòng kính hoặc bệ thấu kính lên xuống để điều chỉnh khoảng cách giữa vật kính và mẫu vật, tức là điều chỉnh tiêu cự. Khi vít điều chỉnh thô quay, phạm vi chuyển động lên xuống lớn, có thể nhanh chóng điều chỉnh khoảng cách giữa vật kính và mẫu vật để thể hiện hình ảnh vật thể trong trường nhìn. Khi vít điều chỉnh tinh quay, biên độ chuyển động lên xuống nhỏ. Nói chung, trên cơ sở sử dụng vít điều chỉnh thô để lấy nét hoặc khi sử dụng ống kính công suất-cao, nó được sử dụng để điều chỉnh so sánh nhằm thu được hình ảnh vật thể hoàn toàn rõ ràng và để quan sát cấu trúc của mẫu vật ở các cấp độ và độ sâu khác nhau.


6. Bộ chuyển đổi vật kính (đĩa quay) được kết nối với một đĩa có thể xoay tự do ở đầu dưới của ống kính và có


3-4 lỗ tròn, thấu kính vật kính được lắp vào các lỗ tròn này và đĩa quay có thể trao đổi thấu kính vật kính với độ phóng đại khác nhau. Khi vật kính được xoay đến vị trí làm việc (tức là thẳng hàng với trục quang), cần phải gắn chặt vết khía trên mép đĩa quay vào khóa cố định trên đế, nếu không không thể quan sát được mẫu vật.


7. Bệ soi kính hiển vi kim loại là một bệ hình vuông hoặc hình tròn nằm bên dưới thấu kính, dùng để đặt các mẫu kính trượt. Có một lỗ sáng hình tròn ở giữa bệ, qua đó ánh sáng từ bên dưới chiếu vào mẫu vật. Bàn soi được trang bị một dụng cụ đẩy mẫu và kẹp lò xo cong ở phía bên trái dùng để cố định mẫu. Bằng cách xoay hai ốc vít ở phía bên phải, mẫu vật có thể được di chuyển tiến, lùi, trái và phải. Một số máy đẩy còn có thang đo trên đó, có thể tính toán quãng đường di chuyển của mẫu vật và xác định vị trí của nó.


Phần chiếu sáng
1. Gương phản xạ là gương hai mặt-với một mặt phẳng và mặt kia lõm, được lắp ở đế của giá đỡ gương và có thể xoay theo bất kỳ hướng nào. Chức năng của nó là thay đổi hướng của nguồn sáng và phản chiếu nó lên gương thu, sau đó chiếu sáng mẫu vật qua lỗ sáng. Bề mặt lõm của chóa phản xạ có khả năng lấy nét mạnh, thích hợp sử dụng trong điều kiện ánh sáng yếu. Khi ánh sáng mạnh, nên sử dụng gương phẳng.


2. Bộ thu, còn được gọi là bộ tụ điện, được đặt trên một giá đỡ bên dưới sân khấu và bao gồm một gương thu và một khẩu độ mống mắt. Vít điều chỉnh dưới bệ gương có thể được sử dụng để điều khiển việc nâng và hạ gương nhằm điều chỉnh cường độ ánh sáng.


Phần quang học
1. Thị kính hay còn gọi là thị kính, được lắp ở đầu trên của ống kính và thường bao gồm hai thấu kính. Có một màng chắn kim loại được lắp đặt giữa thấu kính trên và thấu kính dưới hoặc bên dưới thấu kính dưới, có chức năng xác định kích thước của trường nhìn nên được gọi là màng chắn trường. Một micromet thị kính cũng có thể được lắp đặt trên bề mặt của khẩu độ và một con trỏ có thể được gắn vào khẩu độ bằng cách sử dụng tóc người để chỉ ra mục tiêu quan sát. Một chiếc kính hiển vi thường có 2-3 thị kính được khắc các ký hiệu như 5x, 10x, 15x để biểu thị độ phóng đại của nó, có thể lựa chọn để sử dụng. Độ phóng đại của thị kính thường được sử dụng là 10 lần.


2. Vật kính, còn được gọi là vật kính kết nối, được gắn trên bộ chuyển đổi vật kính và thường có 3-4 thấu kính. Vật kính là một tập hợp các thấu kính bao gồm một số thấu kính lồi và lõm được kết hợp chặt chẽ với nhau. Nó là thành phần chính để xác định hiệu suất phân giải của kính hiển vi. Thông thường, các chỉ số hiệu suất chính được đánh dấu trên vật kính - độ phóng đại và tỷ lệ khẩu độ (chẳng hạn như 10/0,25, 40/0,65 và 100/1,25), chiều dài nòng và độ dày kính che yêu cầu (chẳng hạn như 160/0,17). Theo các hệ số phóng đại khác nhau, người ta thường gọi thấu kính dưới 10 lần là thấu kính có độ phóng đại thấp, thấu kính dưới 40 lần là thấu kính có độ phóng đại cao và thấu kính ngâm trong dầu ở mức 90 hoặc 100 lần là thấu kính ngâm dầu. Để dễ phân biệt, người ta thường dùng một vòng tròn gồm các vạch màu khác nhau làm ký hiệu đặc biệt trên gương có độ phóng đại cao và gương dầu.

 

2 Electronic Microscope

Gửi yêu cầu